Nằm ngay dưới chân Đèo Khế, giáp với Thái Nguyên - đất chè nức tiếng cả nước, làng nghề chè Đồng Đài của xã Hợp Thành (Sơn Dương) không vì thế mà chịu thua thiệt, khi những nghệ nhân làm chè đất này chọn “tỏa hương” theo cách riêng của mình.
Gieo mầm xanh
Ông Trần Khắc Bảy được gọi là người “gieo mầm xanh” ở làng chè Đồng Đài. Ông Bảy trồng chè đã hơn 20 năm nay. Nhưng lâu nay, cách làm của ông vẫn là cách chăm sóc chè truyền thống. Phân bón sử dụng phân vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng một năm đến 11 - 12 lần để phòng trừ sâu bệnh, thuốc diệt cỏ cũng được tận dụng để giảm sức lao động… Ông bảo, “lâu dần, con người cảm giác cũng khô héo đi chứ nói gì đến cây chè”.
Tự bảo mình phải thay đổi cách sản xuất này, ông Trần Khắc Bảy xem trên ti vi thấy các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ đã được người nông dân Tuyên Quang đưa vào thực hiện trên cây cam, cây bưởi, cây rau ở Hàm Yên, Yên Sơn. Kết quả thì vượt ngoài mong đợi. Quan trọng nhất, sức khỏe của người sản xuất được bảo đảm hoàn toàn. Ông bàn với vợ chuyển đổi toàn bộ 1 ha chè của gia đình sang hướng hữu cơ. Thời điểm ấy là đầu năm 2018.
Tuy nhiên “Người tính không bằng trời tính”, toàn bộ 1 ha chè của gia đình ông năng suất sụt giảm đến 90%. Cả vườn chè cháy đen do bị bọ xít muỗi, bọ cánh tơ phá hoại. Trước đây, mỗi năm nhà ông thu đến 3 - 4 tấn chè búp tươi, sau chuyển đổi, cả ha thu về chưa đầy 50 kg.
Ông bảo, “Được cái tính mình lỳ, đã nghĩ mình làm đúng cái gì thì phải quyết tâm làm cho nó đúng mới thôi” vì vậy, ông dồn sức cải tạo vườn chè. Ông mua tỏi, ớt, gừng, thuốc lào, rượu… về ủ thành thuốc trừ sâu bệnh. Nghe nhà ai trong thôn, trong xã có chuồng trại chăn nuôi lớn, ông đánh xe bò đến tận chuồng thu mua phân, về học cách phối trộn, ủ thành phân vi sinh chăm chút cho từng gốc chè. Không phụ người có công, cuối năm 2018, vườn chè của ông Trần Khắc Bảy hồi sinh. Ông bảo, cái hay của “sản xuất tự nhiên” là sau một thời gian không phun thuốc bảo vệ thực vật, những thiên địch xuất hiện ngày càng nhiều, tiêu diệt hết bọ xít muỗi, bọ cánh tơ. Vườn chè được bón phân chuồng, phân vi sinh đủ dinh dưỡng đã bật lên những lộc non mơn mởn. Ông cười khà khoe, năm 2019, năng suất 1 ha chè của gia đình ông đạt hơn 2 tấn chè búp tươi, tương đương với 4 tạ chè khô. Đặc biệt, giá bán mỗi kg chè thành phẩm của gia đình ông được khách đặt mua với giá hơn 600 nghìn đồng/kg, cao gấp 6 lần chè thường.
Giữ hương chè Đồng Đài
Đồng Đài có 59 hộ dân quần tụ, thì có hơn 40 hộ gia đình trồng chè. Lên khai hoang đất mới từ những năm 80 của thế kỷ trước, cây chè được coi là kế sinh nhai, là cây trồng chủ lực của những người con Nam Định rời nơi “chôn nhau cắt rốn” xây dựng kinh tế mới nơi này.
Cái hay của những người trồng chè Đồng Đài từ những ngày bao cấp đến giờ là toàn bộ sản phẩm được hái thủ công. 1 tôm 2 lá, 1 tôm 3 lá… những búp chè tươi được hái nhẹ nhàng, nên sau cả buổi vẫn được giữ vẹn nguyên. Sản phẩm sau khi thu hái về được người chế biến mang ra phơi mỏng, để chè khô sương và thoát hết khí nóng ẩm trong quá trình vận chuyển.
Người dân Đồng Đài tham quan, học tập mô hình sản xuất chè hữu cơ của ông Trần Khắc Bảy.
Thu hái thủ công. Sao chè cũng thực hiện thủ công hoàn toàn. Ông Trần Quốc Công, một cao niên trong làng bảo, sản xuất chè thủ công là một lợi thế với người làm nghề chè ở Đồng Đài. Ưu điểm lớn nhất của nó là tận dụng được hết khả năng của nghệ nhân sao chè, tạo ra hương vị riêng biệt, thơm ngon mà chỉ có chế biến thủ công mới có được. Một yếu tố nữa là yếu tố kế thừa. Ông Công lý giải, việc sản xuất chè thủ công ở Đồng Đài được truyền lại cho thế hệ sau trong quá trình các thành viên trong gia đình trực tiếp tham gia vào quá trình chế biến chè. Chính vì vậy mà kỹ thuật chế biến chè theo phương pháp truyền thống chưa bao giờ mất, nó dần tạo nên thương hiệu cho từng hộ gia đình.
Theo Trưởng thôn Hứa Văn Mão, Đồng Đài giờ có 20 ha chè. Nhà nhà đều đã theo nghề trồng, chế biến chè từ những ngày còn ở quê cũ, tính ra thâm niên làm nghề có đến 50 - 60 năm nay rồi. Trước đó, thôn Đồng Đài đã có 5 ha chè được chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP. Khi mô hình tiên phong của ông Trần Khắc Bảy thành công, huyện cũng có chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người dân chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình mới, nhiều người trồng chè ở Đồng Đài đã đăng ký theo cách thức sản xuất hữu cơ. Ông Mão tính nhẩm, đến thời điểm này, đã có ít nhất 5 ha chè 7 - 8 năm tuổi và 3 ha chè trồng mới của người dân chuyển đổi theo hướng sản xuất này. Phòng Nông nghiệp huyện đã tổ chức cho các hộ dân được tập huấn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp hữu cơ, hỗ trợ phân vi sinh, chế phẩm sinh học, cấp cây giống để trồng mới 3 ha.
Năm 2018, làng nghề chè Đồng Đài chính thức được UBND tỉnh công nhận. Tránh nguy cơ “thất truyền” nghề, và gánh cả trên vai trách nhiệm đưa hương chè Đồng Đài bay xa hơn, Hợp tác xã dịch vụ sản xuất - chế biến chè Sơn Trà Đồng Đài được thành lập. Giám đốc Hợp tác xã Lê Trấn Uy cho biết, hợp tác xã có 8 thành viên, thì hầu hết các thành viên đã sản xuất chè theo hướng hữu cơ. Giải bài toán về lao động, hợp tác xã tập hợp những hộ trồng chè thành từng nhóm. Đến mùa thu hoạch, từng nhóm hộ đổi công cho nhau, giống như cách mà người vùng cao đổi công những ngày cấy hái. Sơn Dương cũng đã đầu tư máy hút chân không, hỗ trợ hợp tác xã xây dựng nhãn hiệu sản phẩm, nhãn mác và tem truy xuất nguồn gốc, hiện đại hóa những công đoạn cần thiết để nâng tầm sản phẩm chè Đồng Đài.
Hương chè Đồng Đài, cùng với những vị chè Vĩnh Tân, Thôn Cảy, Liên Phương, Yên Thượng, Đồng Hoan… đang làm nên sắc hương riêng cho nghề chè ở Sơn Dương. Đặc biệt hơn, khi diện tích chè sản xuất theo hướng hữu cơ không ngừng được mở rộng, những người tiên phong “gieo mầm xanh” như ông Trần Khắc Bảy có quyền tự hào, khi sản phẩm sạch trăm phần trăm “Made in Đồng Đài” vươn đến những thị trường rộng lớn và cao cấp hơn.
Theo TQĐT
Chương trình phát thanh ngày 20/4/2024
Đang Online: 479
Tổng số truy cập: